- 17,857
- 84,389
Xin chào toàn thể anh em,
Ngày hôm nay chúng ta cùng ôn lại một chủ đề cũ, nhưng nó rất thiết thực, đó là "ĐƯỜNG CONG LỢI SUẤT" - YIELD CURVE. Đây là 1 bài viết dài và được tóm gọn những ý chính để tất cả anh em có thể hiểu được nó chỉ trong 1 bài viết. Vì bài viết dài nên mình không lan man nữa mà chúng ta sẽ đi thẳng vào vấn đề:
Đường cong lợi suất là một biểu đồ thể hiện lợi suất trên các trái phiếu có kỳ hạn khác nhau. Ví dụ phổ biến nhất là Đường cong lợi suất Trái phiếu Chính phủ, nhưng có nhiều loại đường cong lợi suất cho các loại trái phiếu khác, chẳng hạn như trái phiếu công ty, trái phiếu lợi suất cao, v.v.
Phía trên là 1 định nghĩa kiểu phức tạp, còn nói đơn giản ra nó chỉ là 1 đường nối các mức lợi suất của các trái phiếu có kỳ hạn khác nhau. Ví dụ trên cùng là 1 ví dụ mình vẽ cho anh em dễ hiểu, dữ liệu thì mình lấy theo cái bảng phía dưới. Đường cong lợi suất được hình thành khi mình nối các điểm thể hiện lợi suất của mặt hàng trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ với kỳ hạn 3 tháng, 2 năm, 5 năm, 7 năm và 10 năm. Đường cong lợi suất Trái phiếu Chính phủ thường được gọi là đường cong lợi suất chuẩn.
Phân tích đường cong lợi suất giúp cho chúng ta định vị thị trường trái phiếu và hướng đi của chúng, xác định vị trí của chúng trong mối tương quan với chu kỳ kinh tế, và dự báo giai đoạn tiếp theo có thể sẽ như thế nào.
Cách xây dựng đường cong lợi suất thì mình thể hiện phía trên luôn rồi. Trục tung (trục đứng) của biểu đồ đường cong lợi suất cho biết lợi suất, trong khi trục hoành hiển thị thời gian đáo hạn của trái phiếu (thường được chuyển đổi thành tháng để có được tỷ lệ thích hợp trên biểu đồ). Bản thân đường cong lợi suất là đường kết nối từng mức lợi suất này trên biểu đồ.
Mỗi ngày, Bộ Tài chính Hoa Kỳ (www.treasury.gov) sẽ báo cáo lợi suất cho các kỳ hạn khác nhau của trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ, từ 1 tháng đến 30 năm. Bảng dưới đây cho thấy các mức lợi suất với ngày cập nhật gần nhất là 04/09/2020, tức là tuần trước. Mình xin lưu ý 1 chút là tất cả các lợi suất này đều được tính theo năm; Ví dụ, khi sở hữu trái phiếu có kỳ hạn một tháng, anh em sẽ nhận được 0.09%/12 = 0,0075% cho 1 tháng.
Để lấy dữ liệu anh em có thể truy cập vào: https://www.treasury.gov/resource-c.../pages/TextView.aspx?data=yieldYear&year=2020
Mặc dù đường cong lợi suất có thể được xây dựng bằng cách sử dụng dữ liệu của tất cả các kỳ hạn, nhưng việc có quá nhiều lợi suất ngắn hạn trên 1 đường cong thường không mang lại nhiều giá trị. Chúng ta chỉ cần 1 đường cong tương đối là được nên biểu đồ đường cong lợi suất sẽ bỏ qua một số lợi suất ngắn hạn. Đường cong lợi suất mà chúng ta nên, và thường nên sử dụng sẽ bao gồm mức lợi suất của các kỳ hạn: 3 tháng, 2 năm, 5 năm, 7 năm, 10 năm, 20 năm và 30 năm (mở website trên ra, rồi nối các mức lợi suất lại là ra)
Nói chung, đường cong lợi suất phản ánh cách các nhà đầu tư nghĩ về rủi ro. Trong một tình huống bình thường, người ta sẽ mong đợi nhận được một khoản bồi thường cao hơn (lợi tức) cho các kỳ hạn dài hơn. Khi bạn cho chính phủ vay tiền trong 20 hoặc 30 năm, bạn sẽ nhận được một khoản tiền bồi thường cao hơn so với khi bạn chỉ cho vay một vài tháng hoặc một năm. (Đơn giản là vì Chính phủ đã chiếm dụng vốn của anh em thì họ phải trả lãi, cái này cũng như anh em đi gửi tiền ngân hàng, lãi gửi các kỳ hạn cao hơn sẽ được nhiều tiền hơn)
Đường cong lợi suất phản ánh lợi suất cho các kỳ hạn khác nhau một cách rất trực quan. Hình dạng của đường cong lợi suất, cũng như sự thay đổi của hình dạng đó theo thời gian, có thể giúp các chúng ta xác định được môi trường kinh tế hiện tại và báo hiệu những thay đổi trong môi trường kinh tế.
Về cơ bản, có ba hình dạng mà một đường cong lợi suất có thể có. Đường cong bình thường có lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn; Đường cong đảo ngược khi lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn; và Đường cong phẳng có lãi suất ngắn hạn và dài hạn gần như bằng nhau. Cái này thì quá rõ ràng, anh em cứ thử vẽ vài ba chấm trên biểu đồ là thấy được ngay.
Trong một đường cong lợi suất bình thường, lợi suất trên các kỳ hạn ngắn thấp hơn so với các kỳ hạn cao, đường cong lợi suất cong dần lên, với tốc độ gia tăng lợi suất sẽ giảm dần (Anh em để ý đây là vận tốc nhé, đường cong sẽ ít dốc hơn ở cuối - xem hình bên dưới). Nói chung thì trong 1 trạng thái bình thường, anh em ăn ngủ bình thường, không nợ nần thì suy nghĩ nó sẽ đơn giản hơn, đó là thời gian đáo hạn càng ngắn, chúng ta càng ít rủi ro và do đó, lợi suất (phần bù) thấp hơn so với trái phiếu có thời hạn dài hơn, chính vì thế nó sinh ra cái đường cong này.
Đường cong lợi suất có hình dạng bình thường thường được nhìn thấy trong một môi trường kinh tế đang tăng trưởng bình thường và không có thay đổi về lạm phát hoặc tín dụng khả dụng.
Biểu đồ trên cho thấy đường cong lợi suất vào ngày 12 tháng 3 năm 2010, khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi sau cuộc Đại suy thoái. Đường cong này khá dốc, thường xuất hiện sớm trong giai đoạn phục hồi. Biểu đồ S&P 500 bên phải cho thấy thị trường chứng khoán bắt đầu phục hồi từ mức đáy của năm trước đó.
Đường cong lợi suất đảo ngược đề cập đến tình huống trong đó trái phiếu có thời hạn ngắn hơn mang lại lợi suất cao hơn trái phiếu dài hơn. Bất chấp tên gọi, đường cong lợi suất đảo ngược không nhất thiết phải đảo ngược “hoàn toàn”. Đôi khi chỉ một số phần của đường cong bị đảo ngược; điều này có thể gây ra các cục như cục bướu hoặc vết lõm như cái ổ gà trên đường cong của chúng ta, nó cho thấy dấu hiệu bất thường. Anh em thử tưởng tượng như hình trên, cái lợi suất trái phiếu 5 năm nó lớn hơn 7 năm sẽ như thế nào?
Một đường cong lợi suất đảo ngược thường được coi là tín hiệu cho thấy tăng trưởng kinh tế sẽ sớm chững lại hoặc đảo ngược, thậm chí có thể báo hiệu sự bắt đầu của suy thoái. Nguyên nhân là do các nhà đầu tư nghĩ rằng thời kỳ tăng trưởng kinh tế đã, hoặc sẽ sớm kết thúc, nó sẽ biến cái rủi ro trong ngắn hạn cao hơn cái rủi ro về dài hạn, chính vì thế mức lợi suất cũng phải tăng lên tương xứng với mức độ rủi ro đó. Ngoài ra, nó cũng thể hiện nhu cầu thanh khoản của nền kinh tế trong ngắn hạn rất cao, khi đó các chủ thể phát hành chấp nhận một lãi suất cao để huy động vốn ngắn hạn. Điều này thường xảy ra khi Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, làm giảm khả năng tiếp cận vốn của nền kinh tế.. Quá trình này có thể gây ra sự đảo ngược (một phần) đường cong lợi suất.
Đường cong lợi suất đảo ngược là tương đối hiếm; khi chúng xảy ra, chúng có xu hướng thu hút nhiều sự chú ý.
Ví dụ trên cho thấy đường cong lợi suất đảo ngược vào ngày 24 tháng 8 năm 2000, trong bối cảnh bong bóng dot-com bùng nổ. Biểu đồ S&P 500 ở bên phải cho thấy thị trường chứng khoán đã bắt đầu chuẩn bị cho một đợt suy thoái lớn trong khoảng thời gian của sự đảo ngược này.
Khi mọi người nói về "sự nghịch đảo của đường cong lợi suất", họ thường đề cập đến phân đoạn 10 năm - 2 năm; đường cong được coi là đảo ngược khi lợi suất 10 năm thấp hơn lợi suất 2 năm. Chúng ta có thể thấy nó xuất hiện vào ngày 24 tháng 8 năm 2000 trong biểu đồ đường cong lợi suất phía trên.
Một cách khác để thể hiện mối quan hệ đó là vẽ biểu đồ chênh lệch giữa hai mức lợi suất này (UST10Y- UST2Y), như được hiển thị trong biểu đồ bên dưới.
Khi mối quan hệ này giảm xuống dưới 0, đường cong 10-2 bị đảo ngược. Biểu đồ chênh lệch cho chúng ta thấy rằng đường cong lợi suất đã bị đảo ngược trong hầu hết năm 2000, tương ứng với sự bùng nổ bong bóng dot-com.
Khi đường cong lợi suất "bằng phẳng", lợi suất sẽ là như nhau ở tất cả các kỳ hạn. Điều này có nghĩa là bạn sẽ nhận được khoản bồi thường gần như tương đương khi bạn cho vay tiền, dù là trong 2 hay là 30 năm. Bạn không được bồi thường cho thời gian cho vay dài hơn trong khi rủi ro cao hơn.
Khi nền kinh tế chuyển từ trạng thái mở rộng sang co hẹp và đường cong lợi suất chuyển từ bình thường sang đảo ngược (hoặc ngược lại), thì nó phải chuyển qua giai đoạn bằng phẳng trước. Do đó, đường cong phẳng có thể được coi là một giai đoạn chuyển đổi trong nền kinh tế từ giai đoạn này sang giai đoạn khác.
Biểu đồ trên cho thấy đường cong lợi suất khá bằng phẳng vào ngày 16 tháng 7 năm 2007, nó đóng vai trò là tiền thân của cuộc Đại suy thoái. Biểu đồ S&P 500 ở bên phải cho thấy giá đi ngang khi nền kinh tế chuyển từ phục hồi sang suy thoái.
Những thay đổi về hình dạng của đường cong theo thời gian được đo bằng độ dốc của đường cong lợi suất. Khi có sự khác biệt lớn giữa điểm đầu (lợi suất TPCP kỳ hạn ngắn) và điểm cuối (lợi suất TPCP kỳ hạn dài) của đường cong, nó được coi là đường cong dốc. Khi có rất ít sự khác biệt giữa hai đầu, đường cong được coi là phẳng.
Quá trình thay đổi của đường cong từ dốc sang phẳng thường được gọi là quá trình "làm phẳng" - “flattening”; tương tự, sự thay đổi của đường cong từ phẳng sang dốc được gọi là "leo dốc" - “steepening”.
Việc "làm phẳng" hay "leo dốc" của đường cong này có thể giúp các nhà đầu tư báo hiệu những thay đổi trong môi trường kinh tế.
Đường cong lợi suất được cho là được làm phẳng khi lợi suất trái phiếu dài hạn giảm xuống trong khi lợi suất trái phiếu ngắn hạn tăng lên, điều này làm giảm sự khác biệt giữa hai loại và làm cho đường cong ít dốc hơn. Sự làm phẳng này thường xảy ra khi nền kinh tế đang ở chế độ phục hồi hoàn toàn.
Biểu đồ bên dưới so sánh đường cong lợi suất vào hai ngày khác nhau. Đường màu đỏ đậm hơn là đường cong lợi suất vào đầu năm 2010, trong khi đường màu đỏ tươi là đường cong vào cuối năm 2018. Như bạn có thể thấy, lợi suất trên các kỳ hạn dài hơn giảm xuống trong khi lợi suất trên các kỳ hạn ngắn hơn tăng cao hơn, nó khiến cho một đường cong rất dốc vào năm 2010 biến thành một đường cong rất phẳng vào năm 2018. Năm 2010 là năm chúng ta đang ở trong trạng thái bắt đầu phục hồi, với đường con lợi suất dốc lên theo 1 trạng thái bình thường, quá trình "làm phẳng" đã được diễn ra cho đến năm 2018, chúng ta có thể nói được rằng, nền kinh tế đang ở chế độ "phục hồi hoàn toàn"
Đây là một tình huống ngược lại, khi mức độ chênh lệch giữa hai đầu của các đường cong có xuất phát là nhỏ nhưng bắt đầu tăng dần lên. Đường cong dốc thường được nhìn thấy khi bắt đầu giai đoạn tăng trưởng hoặc mở rộng.
Biểu đồ trên cho thấy một ví dụ về đường cong đang leo dốc. Vào tháng 5 năm 2007, đường cong lợi suất rất bằng phẳng, với lợi suất của tất cả các kỳ hạn chỉ nằm quanh mức 4,65%. Từ thời điểm đó đến tháng 8 năm 2010, lợi suất đã bắt đầu giảm xuống, nhưng chúng giảm mạnh hơn đối với các kỳ hạn ngắn. Sự suy giảm không đối xứng này đã gây ra một đường cong gấp khúc. Giai đoạn 2010 cũng gắn liền với giai đoạn phục hồi của nền kinh tế!
Hướng của đường cong và sự thay đổi hình dạng của đường cong thường được sử dụng để xác định vị trí hiện tại của chúng ta trong chu kỳ kinh tế (đôi khi được gọi là chu kỳ kinh doanh). Bảng dưới đây cho thấy đường cong lợi suất thường hoạt động như thế nào trong mỗi phân đoạn của chu kỳ.
Biểu đồ trên cho thấy Chỉ số S&P 500 trên khung tháng từ những năm 1970. Các đường gạch ngang màu đỏ và xanh lá cây đánh dấu ngày bắt đầu và ngày kết thúc của các đợt mở rộng và co hẹp trong chu kỳ kinh tế theo định nghĩa của NBER (Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Hoa Kỳ). Do đó, khu vực từ đường màu đỏ đến đường màu xanh lá cây đánh dấu một chu kỳ co hẹp, trong khi khu vực từ màu xanh lá sang màu đỏ đánh dấu một giai đoạn mở rộng.
Mức chênh lệch giữa lợi suất trái phiếu 10 năm và 2 năm được vẽ bên dưới biểu đồ. Các vòng tròn màu cam cho thấy đường cong 10-2 nằm dưới 0, có nghĩa là đường cong lợi suất bị đảo ngược. Chúng ta có thể thấy rằng một đường cong lợi suất thường bị đảo ngược trước mỗi giai đoạn co hẹp của thị trường kể từ cuối những năm 1970. Vậy thì chúng ta có thể rút ra kết luận rằng, đường cong lợi suất thường đảo ngược hoặc bằng phẳng khi bắt đầu suy thoái.
[TBODY]
[/TBODY]
Ngày hôm nay chúng ta cùng ôn lại một chủ đề cũ, nhưng nó rất thiết thực, đó là "ĐƯỜNG CONG LỢI SUẤT" - YIELD CURVE. Đây là 1 bài viết dài và được tóm gọn những ý chính để tất cả anh em có thể hiểu được nó chỉ trong 1 bài viết. Vì bài viết dài nên mình không lan man nữa mà chúng ta sẽ đi thẳng vào vấn đề:
Đường cong lợi suất là một biểu đồ thể hiện lợi suất trên các trái phiếu có kỳ hạn khác nhau. Ví dụ phổ biến nhất là Đường cong lợi suất Trái phiếu Chính phủ, nhưng có nhiều loại đường cong lợi suất cho các loại trái phiếu khác, chẳng hạn như trái phiếu công ty, trái phiếu lợi suất cao, v.v.
Lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 3 tháng vào ngày 04/09/2020 là 0.11, 2 năm là 0.14, 5 năm là 0.3,.... Nối các điểm đó lại với nhau chúng ta được 1 đường cong lợi suất tại thời điểm hiện tại hay còn gọi là Yied Curve
Đường con lợi suất sẽ khác với biểu đồ lợi suất của các kỳ hạn riêng lẻ, trên đây là biểu đồ lợi suất Trái phiếu Chính phủ Hoa kỳ 30 năm
Đường con lợi suất sẽ khác với biểu đồ lợi suất của các kỳ hạn riêng lẻ, trên đây là biểu đồ lợi suất Trái phiếu Chính phủ Hoa kỳ 30 năm
Phía trên là 1 định nghĩa kiểu phức tạp, còn nói đơn giản ra nó chỉ là 1 đường nối các mức lợi suất của các trái phiếu có kỳ hạn khác nhau. Ví dụ trên cùng là 1 ví dụ mình vẽ cho anh em dễ hiểu, dữ liệu thì mình lấy theo cái bảng phía dưới. Đường cong lợi suất được hình thành khi mình nối các điểm thể hiện lợi suất của mặt hàng trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ với kỳ hạn 3 tháng, 2 năm, 5 năm, 7 năm và 10 năm. Đường cong lợi suất Trái phiếu Chính phủ thường được gọi là đường cong lợi suất chuẩn.
Phân tích đường cong lợi suất giúp cho chúng ta định vị thị trường trái phiếu và hướng đi của chúng, xác định vị trí của chúng trong mối tương quan với chu kỳ kinh tế, và dự báo giai đoạn tiếp theo có thể sẽ như thế nào.
Xây dựng đường cong lợi suất:
Cách xây dựng đường cong lợi suất thì mình thể hiện phía trên luôn rồi. Trục tung (trục đứng) của biểu đồ đường cong lợi suất cho biết lợi suất, trong khi trục hoành hiển thị thời gian đáo hạn của trái phiếu (thường được chuyển đổi thành tháng để có được tỷ lệ thích hợp trên biểu đồ). Bản thân đường cong lợi suất là đường kết nối từng mức lợi suất này trên biểu đồ.
Mỗi ngày, Bộ Tài chính Hoa Kỳ (www.treasury.gov) sẽ báo cáo lợi suất cho các kỳ hạn khác nhau của trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ, từ 1 tháng đến 30 năm. Bảng dưới đây cho thấy các mức lợi suất với ngày cập nhật gần nhất là 04/09/2020, tức là tuần trước. Mình xin lưu ý 1 chút là tất cả các lợi suất này đều được tính theo năm; Ví dụ, khi sở hữu trái phiếu có kỳ hạn một tháng, anh em sẽ nhận được 0.09%/12 = 0,0075% cho 1 tháng.
Để lấy dữ liệu anh em có thể truy cập vào: https://www.treasury.gov/resource-c.../pages/TextView.aspx?data=yieldYear&year=2020
Mặc dù đường cong lợi suất có thể được xây dựng bằng cách sử dụng dữ liệu của tất cả các kỳ hạn, nhưng việc có quá nhiều lợi suất ngắn hạn trên 1 đường cong thường không mang lại nhiều giá trị. Chúng ta chỉ cần 1 đường cong tương đối là được nên biểu đồ đường cong lợi suất sẽ bỏ qua một số lợi suất ngắn hạn. Đường cong lợi suất mà chúng ta nên, và thường nên sử dụng sẽ bao gồm mức lợi suất của các kỳ hạn: 3 tháng, 2 năm, 5 năm, 7 năm, 10 năm, 20 năm và 30 năm (mở website trên ra, rồi nối các mức lợi suất lại là ra)
Diễn giải:
Nói chung, đường cong lợi suất phản ánh cách các nhà đầu tư nghĩ về rủi ro. Trong một tình huống bình thường, người ta sẽ mong đợi nhận được một khoản bồi thường cao hơn (lợi tức) cho các kỳ hạn dài hơn. Khi bạn cho chính phủ vay tiền trong 20 hoặc 30 năm, bạn sẽ nhận được một khoản tiền bồi thường cao hơn so với khi bạn chỉ cho vay một vài tháng hoặc một năm. (Đơn giản là vì Chính phủ đã chiếm dụng vốn của anh em thì họ phải trả lãi, cái này cũng như anh em đi gửi tiền ngân hàng, lãi gửi các kỳ hạn cao hơn sẽ được nhiều tiền hơn)
Đường cong lợi suất phản ánh lợi suất cho các kỳ hạn khác nhau một cách rất trực quan. Hình dạng của đường cong lợi suất, cũng như sự thay đổi của hình dạng đó theo thời gian, có thể giúp các chúng ta xác định được môi trường kinh tế hiện tại và báo hiệu những thay đổi trong môi trường kinh tế.
Hình dạng đường cong lợi suất
Về cơ bản, có ba hình dạng mà một đường cong lợi suất có thể có. Đường cong bình thường có lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn; Đường cong đảo ngược khi lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn; và Đường cong phẳng có lãi suất ngắn hạn và dài hạn gần như bằng nhau. Cái này thì quá rõ ràng, anh em cứ thử vẽ vài ba chấm trên biểu đồ là thấy được ngay.
Đường cong bình thường
Trong một đường cong lợi suất bình thường, lợi suất trên các kỳ hạn ngắn thấp hơn so với các kỳ hạn cao, đường cong lợi suất cong dần lên, với tốc độ gia tăng lợi suất sẽ giảm dần (Anh em để ý đây là vận tốc nhé, đường cong sẽ ít dốc hơn ở cuối - xem hình bên dưới). Nói chung thì trong 1 trạng thái bình thường, anh em ăn ngủ bình thường, không nợ nần thì suy nghĩ nó sẽ đơn giản hơn, đó là thời gian đáo hạn càng ngắn, chúng ta càng ít rủi ro và do đó, lợi suất (phần bù) thấp hơn so với trái phiếu có thời hạn dài hơn, chính vì thế nó sinh ra cái đường cong này.
Đường cong lợi suất có hình dạng bình thường thường được nhìn thấy trong một môi trường kinh tế đang tăng trưởng bình thường và không có thay đổi về lạm phát hoặc tín dụng khả dụng.
Biểu đồ trên cho thấy đường cong lợi suất vào ngày 12 tháng 3 năm 2010, khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi sau cuộc Đại suy thoái. Đường cong này khá dốc, thường xuất hiện sớm trong giai đoạn phục hồi. Biểu đồ S&P 500 bên phải cho thấy thị trường chứng khoán bắt đầu phục hồi từ mức đáy của năm trước đó.
Đường cong Đảo ngược:
Đường cong lợi suất đảo ngược đề cập đến tình huống trong đó trái phiếu có thời hạn ngắn hơn mang lại lợi suất cao hơn trái phiếu dài hơn. Bất chấp tên gọi, đường cong lợi suất đảo ngược không nhất thiết phải đảo ngược “hoàn toàn”. Đôi khi chỉ một số phần của đường cong bị đảo ngược; điều này có thể gây ra các cục như cục bướu hoặc vết lõm như cái ổ gà trên đường cong của chúng ta, nó cho thấy dấu hiệu bất thường. Anh em thử tưởng tượng như hình trên, cái lợi suất trái phiếu 5 năm nó lớn hơn 7 năm sẽ như thế nào?
Một đường cong lợi suất đảo ngược thường được coi là tín hiệu cho thấy tăng trưởng kinh tế sẽ sớm chững lại hoặc đảo ngược, thậm chí có thể báo hiệu sự bắt đầu của suy thoái. Nguyên nhân là do các nhà đầu tư nghĩ rằng thời kỳ tăng trưởng kinh tế đã, hoặc sẽ sớm kết thúc, nó sẽ biến cái rủi ro trong ngắn hạn cao hơn cái rủi ro về dài hạn, chính vì thế mức lợi suất cũng phải tăng lên tương xứng với mức độ rủi ro đó. Ngoài ra, nó cũng thể hiện nhu cầu thanh khoản của nền kinh tế trong ngắn hạn rất cao, khi đó các chủ thể phát hành chấp nhận một lãi suất cao để huy động vốn ngắn hạn. Điều này thường xảy ra khi Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, làm giảm khả năng tiếp cận vốn của nền kinh tế.. Quá trình này có thể gây ra sự đảo ngược (một phần) đường cong lợi suất.
Đường cong lợi suất đảo ngược là tương đối hiếm; khi chúng xảy ra, chúng có xu hướng thu hút nhiều sự chú ý.
Ví dụ trên cho thấy đường cong lợi suất đảo ngược vào ngày 24 tháng 8 năm 2000, trong bối cảnh bong bóng dot-com bùng nổ. Biểu đồ S&P 500 ở bên phải cho thấy thị trường chứng khoán đã bắt đầu chuẩn bị cho một đợt suy thoái lớn trong khoảng thời gian của sự đảo ngược này.
Khi mọi người nói về "sự nghịch đảo của đường cong lợi suất", họ thường đề cập đến phân đoạn 10 năm - 2 năm; đường cong được coi là đảo ngược khi lợi suất 10 năm thấp hơn lợi suất 2 năm. Chúng ta có thể thấy nó xuất hiện vào ngày 24 tháng 8 năm 2000 trong biểu đồ đường cong lợi suất phía trên.
Một cách khác để thể hiện mối quan hệ đó là vẽ biểu đồ chênh lệch giữa hai mức lợi suất này (UST10Y- UST2Y), như được hiển thị trong biểu đồ bên dưới.
Khi mối quan hệ này giảm xuống dưới 0, đường cong 10-2 bị đảo ngược. Biểu đồ chênh lệch cho chúng ta thấy rằng đường cong lợi suất đã bị đảo ngược trong hầu hết năm 2000, tương ứng với sự bùng nổ bong bóng dot-com.
Đường cong Bằng phẳng
Khi đường cong lợi suất "bằng phẳng", lợi suất sẽ là như nhau ở tất cả các kỳ hạn. Điều này có nghĩa là bạn sẽ nhận được khoản bồi thường gần như tương đương khi bạn cho vay tiền, dù là trong 2 hay là 30 năm. Bạn không được bồi thường cho thời gian cho vay dài hơn trong khi rủi ro cao hơn.
Khi nền kinh tế chuyển từ trạng thái mở rộng sang co hẹp và đường cong lợi suất chuyển từ bình thường sang đảo ngược (hoặc ngược lại), thì nó phải chuyển qua giai đoạn bằng phẳng trước. Do đó, đường cong phẳng có thể được coi là một giai đoạn chuyển đổi trong nền kinh tế từ giai đoạn này sang giai đoạn khác.
Biểu đồ trên cho thấy đường cong lợi suất khá bằng phẳng vào ngày 16 tháng 7 năm 2007, nó đóng vai trò là tiền thân của cuộc Đại suy thoái. Biểu đồ S&P 500 ở bên phải cho thấy giá đi ngang khi nền kinh tế chuyển từ phục hồi sang suy thoái.
Sự thay đổi đường cong lợi suất
Những thay đổi về hình dạng của đường cong theo thời gian được đo bằng độ dốc của đường cong lợi suất. Khi có sự khác biệt lớn giữa điểm đầu (lợi suất TPCP kỳ hạn ngắn) và điểm cuối (lợi suất TPCP kỳ hạn dài) của đường cong, nó được coi là đường cong dốc. Khi có rất ít sự khác biệt giữa hai đầu, đường cong được coi là phẳng.
Quá trình thay đổi của đường cong từ dốc sang phẳng thường được gọi là quá trình "làm phẳng" - “flattening”; tương tự, sự thay đổi của đường cong từ phẳng sang dốc được gọi là "leo dốc" - “steepening”.
Việc "làm phẳng" hay "leo dốc" của đường cong này có thể giúp các nhà đầu tư báo hiệu những thay đổi trong môi trường kinh tế.
Làm phẳng
Đường cong lợi suất được cho là được làm phẳng khi lợi suất trái phiếu dài hạn giảm xuống trong khi lợi suất trái phiếu ngắn hạn tăng lên, điều này làm giảm sự khác biệt giữa hai loại và làm cho đường cong ít dốc hơn. Sự làm phẳng này thường xảy ra khi nền kinh tế đang ở chế độ phục hồi hoàn toàn.
Biểu đồ bên dưới so sánh đường cong lợi suất vào hai ngày khác nhau. Đường màu đỏ đậm hơn là đường cong lợi suất vào đầu năm 2010, trong khi đường màu đỏ tươi là đường cong vào cuối năm 2018. Như bạn có thể thấy, lợi suất trên các kỳ hạn dài hơn giảm xuống trong khi lợi suất trên các kỳ hạn ngắn hơn tăng cao hơn, nó khiến cho một đường cong rất dốc vào năm 2010 biến thành một đường cong rất phẳng vào năm 2018. Năm 2010 là năm chúng ta đang ở trong trạng thái bắt đầu phục hồi, với đường con lợi suất dốc lên theo 1 trạng thái bình thường, quá trình "làm phẳng" đã được diễn ra cho đến năm 2018, chúng ta có thể nói được rằng, nền kinh tế đang ở chế độ "phục hồi hoàn toàn"
Leo dốc:
Đây là một tình huống ngược lại, khi mức độ chênh lệch giữa hai đầu của các đường cong có xuất phát là nhỏ nhưng bắt đầu tăng dần lên. Đường cong dốc thường được nhìn thấy khi bắt đầu giai đoạn tăng trưởng hoặc mở rộng.
Biểu đồ trên cho thấy một ví dụ về đường cong đang leo dốc. Vào tháng 5 năm 2007, đường cong lợi suất rất bằng phẳng, với lợi suất của tất cả các kỳ hạn chỉ nằm quanh mức 4,65%. Từ thời điểm đó đến tháng 8 năm 2010, lợi suất đã bắt đầu giảm xuống, nhưng chúng giảm mạnh hơn đối với các kỳ hạn ngắn. Sự suy giảm không đối xứng này đã gây ra một đường cong gấp khúc. Giai đoạn 2010 cũng gắn liền với giai đoạn phục hồi của nền kinh tế!
Mối quan hệ với chu kỳ kinh tế
Hướng của đường cong và sự thay đổi hình dạng của đường cong thường được sử dụng để xác định vị trí hiện tại của chúng ta trong chu kỳ kinh tế (đôi khi được gọi là chu kỳ kinh doanh). Bảng dưới đây cho thấy đường cong lợi suất thường hoạt động như thế nào trong mỗi phân đoạn của chu kỳ.
Biểu đồ trên cho thấy Chỉ số S&P 500 trên khung tháng từ những năm 1970. Các đường gạch ngang màu đỏ và xanh lá cây đánh dấu ngày bắt đầu và ngày kết thúc của các đợt mở rộng và co hẹp trong chu kỳ kinh tế theo định nghĩa của NBER (Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Hoa Kỳ). Do đó, khu vực từ đường màu đỏ đến đường màu xanh lá cây đánh dấu một chu kỳ co hẹp, trong khi khu vực từ màu xanh lá sang màu đỏ đánh dấu một giai đoạn mở rộng.
Mức chênh lệch giữa lợi suất trái phiếu 10 năm và 2 năm được vẽ bên dưới biểu đồ. Các vòng tròn màu cam cho thấy đường cong 10-2 nằm dưới 0, có nghĩa là đường cong lợi suất bị đảo ngược. Chúng ta có thể thấy rằng một đường cong lợi suất thường bị đảo ngược trước mỗi giai đoạn co hẹp của thị trường kể từ cuối những năm 1970. Vậy thì chúng ta có thể rút ra kết luận rằng, đường cong lợi suất thường đảo ngược hoặc bằng phẳng khi bắt đầu suy thoái.
Chúc anh em sớm thành tựu!
Mạc An
Mạc An
Giới thiệu SÁCH MỚI về MÔ HÌNH BIỂU ĐỒ cho anh em: https://bit.ly/mo-hinh-bieu-do-1 |
Giới thiệu sách Trading hay
Naked Forex - Phương Pháp Price Action Tinh Gọn
Naked Forex được đánh giá cao trên toàn cầu (theo Amazon) vì đã cung cấp một cẩm nang thực thụ cho những nhà giao dịch theo trường phái Price Action
Chỉnh sửa lần cuối:
Bài viết liên quan