Lưu Quốc Việt
Active Member
- 98
- 231
Cấu trúc thị trường tài chính được cấu tạo bởi nhiều thành phần khác nhau tùy thuộc vào cách phân loại. Bài viết này sẽ liệt kê các cặp thị trường phụ thuộc vào các cách phân loại đó.
Đây là cách phân loại dựa vào cách các chủ thể lấy vốn từ thị trường tài chính. Bộ phận thứ nhất là thị trường nợ nơi mà cá nhân hay doanh nghiệp có thể lấy vốn từ thị trường tài chính bằng cách phát hành công cụ nợ như trái phiếu hay cho vay thế chấp.
Các công cụ nợ này là hợp đồng cam kết của người phát hành trả cho người nắm giữ 1 khoản tiền cố định sau 1 khoản thời gian nhất định và trả gốc khi đáo hạn. Kì hạn là số năm tính từ lúc người mua nắm giữ công cụ nợ cho đến khi đáo hạn. Một công cụ nợ được coi là ngắn hạn khi có kì hạn ít hơn 1 năm, trung hạn nếu có kì hạn từ 1 - 10 năm và dài hạn là trên 10 năm.
Cách thứ hai để huy động vốn trên thị trường tài chính là phát hành cổ phiếu, như cổ phiếu phổ thông. Cổ phiếu xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu đối với thu nhập ròng (thu nhập sau khi trừ chi phí và thuế) và tài sản của doanh nghiệp phát hành.
Người phát hành cổ phiếu thường trả cho người nắm giữ 1 số tiền định kì gọi là cổ tức và được xem như công cụ tài chính dài hạn vì nó không có thời gian đáo hạn.
Ngoài ra, sở hữu cổ phiếu cũng có nghĩa là sở hữu 1 phần công ty nên nên người nắm giữ có quyền biểu quyết trong các quyết định quan trọng của công ty và chỉ định người lãnh đạo tùy thuộc vào phần trăm cổ phiếu các bác nắm giữ.
Đây là cách phân loại dựa vào cổ phiếu đó mới được phát hành hay là không. Thị trường sơ cấp là thị trường mà chứng khoán mới phát hành, trái phiếu hay cổ phiếu, được bán lần đầu tiên cho người mua bởi 1 công ty hay chính phủ. Thị trường thứ cấp là thị trường mà các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp được bán lại.
Thị trường sơn cấp thường không được biết đến nhiều vì nó thường diễn ra 1 cách bí mật và người mua thường là do công ty phát hành hay ngân hàng bảo lãnh phát hành mời. Ngân hàng bảo lãnh phát hành giúp cho việc phát hành lần đầu diễn ra trơn tru.
Họ sẽ lo hết các khâu từ tính giá trị chứng khoán, số lượng sẽ bán ra chon đến marketing cho buổi phát hành này.
Sàn chứng khoán New York và Mỹ và NASDAQ là 1 vài ví dụ về thị trường thứ cấp. Một ví dụ khác là thị trường trái phiếu và đây là công cụ tài chính có khối lượng giao dịch rất lớn. Thị trường ngoại hối, thị trường tương lai và thị trường quyền chọn cũng là 1 vài ví dụ khác về thị trường thứ cấp.
Hai chủ thể rất quan trọng trong thị trường thứ cấp là broker và dealer. Broker là người đại diện cho nhà đầu tư tham gia vào thị trường thứ cấp và kết nối người mua và bán chứng khoán này. Dealer lại liên kết người mua và người bán bằng cách mua và bán chứng khoán ở một mức giá nhất định.
Công dụng của thị trường thứ cấp là cung cấp tính thanh khoản (khả năng bán nhanh hay chậm của chứng khoán) cho chứng khoán và định giá các chứng khoán sẽ được phát hành trong thị trường sơ cấp.
Khi 1 công ty phát hành chứng khoán mới trên thị trường sơ cấp, người mua sẽ chỉ chấp nhập mức giá bé hơn hoặc bằng mức giá các cổ phiếu đã phát hành của công ty này ở thị trường thứ cấp. Vì thế, tuy là vốn chỉ đi vào tài khoản của công ty trong thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp cũng được các công ty theo dõi sát sao.
Sàn chứng khoán NASDAQ là 1 dạng thị trường tập trung
Thị trường thứ cấp được tổ chức bằng hai cách. Một là tập trung tất cả người mua người bán lại vào 1 khu trung tâm gọi là thị trường tập trung. Sàn cứng khoán New York và Mỹ và Hội đồng thương mại Chicago về hàng hóa là 1 vài ví dụ về dạng thị trường này.
Một cách khác để bán chứng khoán là bán chúng ở thị trường phi tập trung. Ở thị trường này, các dealer sẽ có sẵn trong túi 1 số chứng khoán nhất định và sẵn sàng mua hoặc bán chứng khoán đó với người ra giá thích hợp nhất mà không thông sàn giao dịch nào cả. Thường thì phần lớn cổ phiếu được giao dịch theo dạng này.
Một cách khác để phân loại thị trường tài chính là dựa vào thời gian đáo hạn của công cụ tài chính. Thị trường tiền tệ là thị trường tài chính giao dịch những công cụ nợ ngắn hạn (thời gian đáo hạn dưới 1 năm) ;và thị trường vốn là nơi trao đổi các công cụ nợ dài hạn (thời gian đáo hạn từ 1 năm trở lên) và chứng khoán.
Những chứng khoán trong thị trường tiền tệ được giao dịch nhiều hơn thị trường vốn và vì thế chứng khoán trong thị trường tiền tệ sẽ có thanh khoản cao hơn.
Những công cụ trong thị trường tiền tệ sẽ ít biến động hơn về giá. Vì thế, các công ty thường đầu tư vào thị trường tiền tệ khi có một số tiền dư ra tạm thời. Những công cụ tài chính dài hạn thường được nắm giữ bởi những trung gian tài chính như công ty bảo hiểm và quỹ lương hưu.
Vậy là lại một bài học nữa kết thúc. Các bác có muốn cô giáo ở cover dạy tiếp không? Nếu có, hãy comment "Tôi muốn tham gia" bên dưới nhá.
Thị trường nợ và thị trường vốn
Đây là cách phân loại dựa vào cách các chủ thể lấy vốn từ thị trường tài chính. Bộ phận thứ nhất là thị trường nợ nơi mà cá nhân hay doanh nghiệp có thể lấy vốn từ thị trường tài chính bằng cách phát hành công cụ nợ như trái phiếu hay cho vay thế chấp.
Các công cụ nợ này là hợp đồng cam kết của người phát hành trả cho người nắm giữ 1 khoản tiền cố định sau 1 khoản thời gian nhất định và trả gốc khi đáo hạn. Kì hạn là số năm tính từ lúc người mua nắm giữ công cụ nợ cho đến khi đáo hạn. Một công cụ nợ được coi là ngắn hạn khi có kì hạn ít hơn 1 năm, trung hạn nếu có kì hạn từ 1 - 10 năm và dài hạn là trên 10 năm.
Cách thứ hai để huy động vốn trên thị trường tài chính là phát hành cổ phiếu, như cổ phiếu phổ thông. Cổ phiếu xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu đối với thu nhập ròng (thu nhập sau khi trừ chi phí và thuế) và tài sản của doanh nghiệp phát hành.
Người phát hành cổ phiếu thường trả cho người nắm giữ 1 số tiền định kì gọi là cổ tức và được xem như công cụ tài chính dài hạn vì nó không có thời gian đáo hạn.
Ngoài ra, sở hữu cổ phiếu cũng có nghĩa là sở hữu 1 phần công ty nên nên người nắm giữ có quyền biểu quyết trong các quyết định quan trọng của công ty và chỉ định người lãnh đạo tùy thuộc vào phần trăm cổ phiếu các bác nắm giữ.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Đây là cách phân loại dựa vào cổ phiếu đó mới được phát hành hay là không. Thị trường sơ cấp là thị trường mà chứng khoán mới phát hành, trái phiếu hay cổ phiếu, được bán lần đầu tiên cho người mua bởi 1 công ty hay chính phủ. Thị trường thứ cấp là thị trường mà các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp được bán lại.
Thị trường sơn cấp thường không được biết đến nhiều vì nó thường diễn ra 1 cách bí mật và người mua thường là do công ty phát hành hay ngân hàng bảo lãnh phát hành mời. Ngân hàng bảo lãnh phát hành giúp cho việc phát hành lần đầu diễn ra trơn tru.
Họ sẽ lo hết các khâu từ tính giá trị chứng khoán, số lượng sẽ bán ra chon đến marketing cho buổi phát hành này.
Sàn chứng khoán New York và Mỹ và NASDAQ là 1 vài ví dụ về thị trường thứ cấp. Một ví dụ khác là thị trường trái phiếu và đây là công cụ tài chính có khối lượng giao dịch rất lớn. Thị trường ngoại hối, thị trường tương lai và thị trường quyền chọn cũng là 1 vài ví dụ khác về thị trường thứ cấp.
Hai chủ thể rất quan trọng trong thị trường thứ cấp là broker và dealer. Broker là người đại diện cho nhà đầu tư tham gia vào thị trường thứ cấp và kết nối người mua và bán chứng khoán này. Dealer lại liên kết người mua và người bán bằng cách mua và bán chứng khoán ở một mức giá nhất định.
Công dụng của thị trường thứ cấp là cung cấp tính thanh khoản (khả năng bán nhanh hay chậm của chứng khoán) cho chứng khoán và định giá các chứng khoán sẽ được phát hành trong thị trường sơ cấp.
Khi 1 công ty phát hành chứng khoán mới trên thị trường sơ cấp, người mua sẽ chỉ chấp nhập mức giá bé hơn hoặc bằng mức giá các cổ phiếu đã phát hành của công ty này ở thị trường thứ cấp. Vì thế, tuy là vốn chỉ đi vào tài khoản của công ty trong thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp cũng được các công ty theo dõi sát sao.
Thị trường tập trung và thị trường phi tập trung
Sàn chứng khoán NASDAQ là 1 dạng thị trường tập trung
Một cách khác để bán chứng khoán là bán chúng ở thị trường phi tập trung. Ở thị trường này, các dealer sẽ có sẵn trong túi 1 số chứng khoán nhất định và sẵn sàng mua hoặc bán chứng khoán đó với người ra giá thích hợp nhất mà không thông sàn giao dịch nào cả. Thường thì phần lớn cổ phiếu được giao dịch theo dạng này.
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn
Một cách khác để phân loại thị trường tài chính là dựa vào thời gian đáo hạn của công cụ tài chính. Thị trường tiền tệ là thị trường tài chính giao dịch những công cụ nợ ngắn hạn (thời gian đáo hạn dưới 1 năm) ;và thị trường vốn là nơi trao đổi các công cụ nợ dài hạn (thời gian đáo hạn từ 1 năm trở lên) và chứng khoán.
Những chứng khoán trong thị trường tiền tệ được giao dịch nhiều hơn thị trường vốn và vì thế chứng khoán trong thị trường tiền tệ sẽ có thanh khoản cao hơn.
Những công cụ trong thị trường tiền tệ sẽ ít biến động hơn về giá. Vì thế, các công ty thường đầu tư vào thị trường tiền tệ khi có một số tiền dư ra tạm thời. Những công cụ tài chính dài hạn thường được nắm giữ bởi những trung gian tài chính như công ty bảo hiểm và quỹ lương hưu.
Kết luận
Vậy là lại một bài học nữa kết thúc. Các bác có muốn cô giáo ở cover dạy tiếp không? Nếu có, hãy comment "Tôi muốn tham gia" bên dưới nhá.
Giới thiệu sách Trading hay
Thấu hiểu Hành vi giá Thị trường Tài chính - Understanding Price Action
Là quyển sách hướng dẫn giao dịch Phương Pháp Price Action của Bob Volman, chỉ sử dụng duy nhất một đường MA và cấu trúc thị trường cùng hành vi giá để tìm kiếm lợi nhuận
Chỉnh sửa lần cuối bởi người điều hành:
Bài viết liên quan